Cuộc đời và sự nghiệp quan trường Lê_Trung_Ngọc

Ông sinh ngày 23 tháng 9 năm Đinh Mão (tức 20 tháng 10 năm 1867), quê ở thôn Tân Quảng, huyện Tân Long, hạt thanh tra Chợ Lớn, tỉnh Sài Gòn (nay thuộc Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh).[2]

Sinh ra trong một gia đình Nho học, tuy nhiên bấy giờ đất Nam Kỳ đã là thuộc địa của Pháp, nên ông theo Tây học. Năm 1883, Hòa ước Harmand được ký kết, sau khi học xong trường Hậu bổ Cây Mai Sài Gòn (Collège dés Stagiaires), ông được chính quyền thực dân điều ra làm việc trong chính quyền Nam triều tại Bắc Kỳ.

Sự nghiệp quan trường của ông kéo dài trong 40 năm. Tháng 1 năm 1903, ông được bổ làm Tuần phủ Bắc Ninh, đến tháng 7 năm 1903 được đổi làm Thương tá Vĩnh Yên.

Tháng 3 năm 1908, ông được đổi làm Án sát Vĩnh Yên; sau đổi làm Án sát Phúc Yên, tháng 6 năm 1909, đổi làm Án sát Sơn Tây.

Tháng 2 năm 1912, ông được bổ làm Tuần phủ Sơn Tây. Tháng 4 năm 1913, đổi làm Tuần phủ Bắc Giang. Tháng 12 năm 1913, làm Tuần phủ Quảng Yên. Từ tháng 2 năm 1915 đến tháng 1 năm 1921, ông làm Tuần phủ Phú Thọ.

Tháng 2 năm 1921, ông được bổ làm Tổng đốc Hải Dương. Đến tháng 1 năm 1924, ông làm Tổng đốc Tòa Thượng thẩm, Hà Nội cho đến khi nghỉ hưu vào tháng 7 năm 1927.

Ông qua đời ngày 21 tháng Tư năm Mậu Thìn (tức 8 tháng 6 năm 1928) tại Hà Nội, hưởng thọ 62 tuổi.

Trong sự nghiệp quan trường, ông đã dược tặng thưởng nhiều Huân chương như: Kỷ niệm chương Bắc kỳ năm 1888; Đại Nam Long tinh Đệ ngũ hạng năm 1890; Huy chương bạc hạng nhất năm 1891; Huy chương vàng 1892; Hồng Lô tự thiếu khanh năm 1896; Kim Thánh năm 1898; Huân chương Viện hàn lâm năm 1904; Huân chương quốc gia Vương quốc Campuchia năm 1913…